Tháng 12-1926, được một số thành viên Hội Việt Nam thanh niên cách mạng giới thiệu, Ông bí mật sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện chính trị do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở. Trong quá trình giảng dạy, nhận thấy Phùng Chí Kiên là người nhiệt huyết với cách mạng, tư chất thông minh, có tư duy về quân sự, nên Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhóm cố vấn quân sự Liên Xô đã quyết định chọn Ông cùng một số thanh niên Việt Nam đưa vào đào tạo tại Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ Tôn Trung Sơn. Năm 1927, Trường Quân sự Hoàng Phố bị đóng cửa do Tưởng giới Thạch phản bội, Đồng chí đã cùng với các học viên Nhà trường tham gia Cuộc Khởi nghĩa Quảng Châu do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Cuộc Khởi nghĩa thất bại, Nghĩa quân và các đoàn thể quần chúng phải rút khỏi Quảng Châu chuyển về vùng nông thôn lập khu Xô-viết ở Hải Phong - Lục Phong (thuộc tỉnh Quảng Đông). Lúc này, Phùng Chí Kiên với cương vị được giao là Liên trưởng (tương đương đại đội trưởng), luôn nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, gian khổ, kiên cường chỉ huy đơn vị chiến đấu anh dũng, bẻ gãy nhiều cuộc tiến công của quân Tưởng, bảo vệ khu Xô-viết. Qua cuộc chiến này, tư chất của một cán bộ chỉ huy quân sự được phát lộ và đã luyện rèn cho Đồng chí bản lĩnh, kinh nghiệm trong đấu tranh chống kẻ thù.
Tháng 4-1932, Phùng Chí Kiên sang Liên Xô, vào học tại Trường Đại học Phương Đông, khóa học từ 15-6-1932 đến 28-3-1934. Sau khi tốt nghiệp, theo phân công của Quốc tế Cộng sản, Đồng chí về Hương Cảng (Hồng Kông) tham gia Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong phụ trách. Với kiến thức, trình độ về quân sự và kỹ thuật vô tuyến điện giỏi, Đồng chí được phân công phụ trách Tiểu ban Quân sự và Kỹ thuật. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất của Đảng họp ở Ma Cao (3-1935), Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và là Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng. Tháng 8-1936, Đồng chí được cử về Sài Gòn cùng đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 16-7-1936. Do yêu cầu mới của cách mạng, khoảng một năm sau, Đồng chí quay lại Hương Cảng chỉ đạo Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng thay cho đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động. Tháng 10-1938, thực dân Anh đã ra lệnh bắt giữ và hai tháng sau đó, trục xuất Đồng chí khỏi Hương Cảng. Phùng Chí Kiên đến Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam), nơi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động. Tại đây, Phùng Chí Kiên cùng một số đồng chí khác nhanh chóng củng cố lại Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng, tổ chức xuất bản tờ báo Đồng Thanh để phục vụ công tác tuyên truyền, vận động và định hướng đấu tranh cách mạng cho quần chúng, ủng hộ nhân dân Trung Quốc đánh Nhật. Sau đó, theo gợi ý của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tờ Đồng Thanh được đổi tên thành Đ.T, hàm chứa nghĩa rộng hơn: có thể hiểu là Đồng Tâm, Đánh Tây, Đấu Tranh và thậm chí là Đảng ta, v.v. Đây là thời gian Đồng chí bắt đầu được làm việc gần Nguyễn Ái Quốc; nhiều lần đưa Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến các nơi thuộc tỉnh Vân Nam, như: Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn,… để thăm các cơ sở quần chúng cách mạng và khảo sát đường về Tổ quốc khi điều kiện cho phép. Như vậy, giai đoạn tham gia hoạt động trong Ban Chỉ huy ở ngoài, với cương vị là Thường vụ Trung ương Đảng khóa I, Đồng chí đã cùng Trung ương Đảng và Ban Thường vụ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng của cách mạng Việt Nam. Với tinh thần nỗ lực phấn đấu không ngưng nghỉ, bản thân Đồng chí đã có những đóng góp to lớn cho sự tồn tại, phát triển của Đảng trong những năm tháng đầy cam go, phức tạp này.
Tháng 6-1940, đồng chí Phùng Chí Kiên cùng với Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Tĩnh Tây, một thị trấn thuộc tỉnh Quảng Tây, giáp biên giới Trung – Việt, để chuẩn bị về nước. Tại đây, Đồng chí được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ cùng với các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp biên soạn một số bài giảng và trực tiếp giảng dạy cho 40 cán bộ để đưa về Cao Bằng xây dựng thí điểm các đoàn thể Việt Minh, lập khu căn cứ cách mạng. Những bài giảng này, về sau được tập hợp lại thành tài liệu mang tên: “Con đường giải phóng” - một tài liệu quan trọng phục vụ chương trình đào tạo, huấn luyện cán bộ của Đảng ta nói chung, của Quân đội ta nói riêng. Với kinh nghiệm tích lũy được trong những năm tháng hoạt động tại Trung Quốc, tham gia Hồng quân công nông Trung Quốc, Phùng Chí Kiên đã nghiên cứu, phác thảo tài liệu “Về chiến tranh chống Nhật của nhân dân Trung Quốc”. Ngoài ra, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc còn giao cho Ông cùng một số đồng chí khác soạn thảo Kế hoạch đánh Nhật, chống Pháp: “Đảng giao cho một số đồng chí thảo kế hoạch đánh Nhật, chống Pháp. Các đồng chí ấy khai hội trên một bãi cỏ ở Quảng Tây. Trong 6, 7 người, tôi chỉ nhớ tên các đồng chí Phùng Tự Do (đã hy sinh ở Na Rì, Bắc Cạn), Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp”1.
Ngày 28-01-1941, đồng chí Phùng Chí Kiên cùng với một số cán bộ cách mạng được huấn luyện tại Trung Quốc theo Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Pắc bó, tỉnh Cao Bằng xây dựng thí điểm Việt Minh tại ba châu: Hà Quảng, Hòa An và Nguyên Bình. Sau ba tháng, phong trào Việt Minh đã phát triển rộng khắp với hơn 2.000 hội viên. Tại đây, Phùng Chí Kiên chăm lo việc xây dựng, bảo vệ khu căn cứ Cao Bằng và trước sự phát triển nhanh chóng của phong trào Việt Minh, Đồng chí hăng hái vận động thành lập các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu; đồng thời, tích cực tham gia tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn và miền xuôi. Kinh nghiệm và kết quả xây dựng thí điểm Việt Minh ở Cao Bằng là cơ sở thực tiễn để Đảng ta hoàn chỉnh chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng; vạch ra đường lối, phương pháp giành chính quyền, v.v. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, diễn ra tại Khuổi Nậm, Pắc Bó - Hà Quảng, từ ngày 10 đến 19 tháng 5 năm 1941, đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); đổi tên các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trước đây thành các hội cứu quốc. Đồng chí Phùng Chí Kiên tiếp tục được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách quân sự, trực tiếp chỉ huy khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai và Trung đội Cứu quốc quân. Đây là khu căn cứ hình thành từ cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn và hiện đang có đội Đội du kích Bắc Sơn hoạt động. Chấp hành Nghị quyết trên, tháng 7-1941, thay mặt Trung ương Ðảng, Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 cho cán bộ, chiến sĩ Ðội du kích Bắc Sơn. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, Ðội du kích Bắc Sơn được đổi tên thành Ðội Cứu quốc quân Bắc Sơn (sau này gọi là Trung đội Cứu quốc quân 1, là một trong những đơn vị tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam). Được Trung ương Đảng tăng cường thêm lực lượng, lúc này toàn Đội có 37 người, 15 súng trường và súng kíp, còn lại là dao găm; được biên chế thành 3 tiểu đội, do đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Trung ương Ðảng làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Lương Văn Tri làm Chính trị viên; đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Ðảng. Cũng chính thời điểm này, thực dân Pháp đang huy động lực lượng lên tới 4.000 quân để mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của phong trào Cộng sản Đông Dương và Đội Cứu quốc quân.
Vừa đảm nhiệm cương vị mới, đồng chí Phùng Chí Kiên đã cùng với Đội Cứu quốc quân 1 phải chuẩn bị đối phó với sự khủng bố của thực dân Pháp. Từ kinh nghiệm thí điểm Việt Minh ở Cao Bằng, Đồng chí đã nhanh chóng thành lập các tổ, đội và tranh thủ tổ chức huấn luyện về Chương trình Việt Minh cho các đội viên đi tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng; xây dựng, củng cố lại các cơ sở cách mạng ở căn cứ Bắc Sơn; phát triển các tổ chức đảng và đoàn thể cách mạng, như: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v. Từ kinh nghiệm thực tiễn của mình, Đồng chí còn truyền đạt những kiến thức cơ bản về quân sự, nhất là chiến thuật du kích cho các cán bộ về dự Hội nghị quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, để khi trở về địa phương họ sẽ phổ biến cho tự vệ và quần chúng cách mạng. Tiếp đó, Đồng chí cùng toàn Đội tổ chức họp đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng, củng cố khu căn cứ trong thời gian vừa qua; đề ra phương hướng, nhiệm vụ hoạt động, củng cố lực lượng, phát triển phong trào cách mạng, sẵn sàng chống địch khủng bố. Như vậy, những kiến thức và kinh nghiệm về quân sự tích lũy được trong quá trình hoạt động cách mạng cả trong nước, cũng như ngoài nước đã được Ông đem ra áp dụng xây dựng Đội Cứu quốc quân 1 và Khu căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.
Kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa còn đang dang dở thì thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, tập trung bủa vây hòng tiêu diệt lực lượng cán bộ nòng cốt của ta ở Khu căn cứ. Trước tình hình đó, Ông đã vận dụng nhuần nhuyễn những quan điểm cơ bản về kháng chiến toàn dân, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nguyên tắc tác chiến du kích để bảo vệ an toàn cho cán bộ về dự Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 8; đồng thời, đưa các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng về dưới xuôi an toàn. Với quan điểm phải bảo vệ “vốn liếng” quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này, Phùng Chí Kiên và Lương văn Tri chủ trương rút quân ra khỏi vòng vây của địch, chỉ để lại một tiểu đội bí mật hoạt động. Tháng 8 năm 1941, Cứu quốc quân chia làm hai cánh rút về phía Cao Bằng và Lạng Sơn. Cánh quân rút về phía Lạng Sơn do đồng chí Hoàng Văn Thái và Đặng Văn Cáp chỉ huy từ Khuổi Nọi sang huyện Bình Gia lên Văn Mịch, Thất Khê, sau đó sang biên giới Việt – Trung an toàn. Cánh quân rút về phía Cao Bằng, khi qua vùng Na Rì (Bắc Cạn), bị địch phục kích, Đồng chí kiên cường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và đã anh dũng hy sinh vào ngày 22-8-1941, khi mới 40 tuổi đời, trong lúc tài năng đang nở rộ.
Sự hy sinh của Ông là một mất mát lớn cho cách mạng, như Tổng Bí thư Trường Chinh (lấy bút danh Sóng Biển) đã viết trên báo Cờ giải phóng, số 2, ra ngày 26-8-1943: “Anh Phùng hay Lý vĩnh biệt chúng ta được hai năm rồi!... Thôi! Thế là một chiến sĩ tài ba, lỗi lạc đã bỏ mình nơi ngàn cây dặm cỏ… Cái chết của anh thật là một sự thiệt thòi cho Đảng. Nó còn gieo biết bao nỗi thương tiếc cho các đồng chí. Anh Phùng đã khuất. Nhưng tinh thần anh vẫn sống mãi với non sông, cây cỏ. Chúng ta càng nhớ đến anh, càng phải nỗ lực chiến đấu để chóng hoàn thành sự nghiệp vĩ đại của Đảng mà anh đã hoàn toàn ký thác nơi chúng ta”. Ghi nhận công lao của đồng chí Phùng Chí Kiên, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 23-9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 89-SL truy phong cấp tướng cho Đồng chí. Đây là sắc lệnh phong tướng đầu tiên của Nhà nước ta.
Đồng chí Phùng Chí Kiên thực sự là chiến sĩ cách mạng tiêu biểu, suốt đời phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì lợi ích của Đảng và Quốc gia, dân tộc; một tấm gương về sự say mê nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ quân sự, chính trị; một người cán bộ mẫu mực luôn có ý thức giữ gìn sự đoàn kết và kỷ luật trong Đảng, thường xuyên trau dồi đức tài, bản chất cách mạng, không khuất phục trước kẻ thù, sống anh dũng, chết vẻ vang. Đồng chí là một tấm gương đạo đức cách mạng chúng ta cần học tập và làm theo./.
THƯỢNG TÁ NGUYỄN CÔNG TÂM
Ý kiến bạn đọc